Truyền thuyết một loài hoa theo Đạo Phật
Tương truyền rằng, Bỉ Ngạn là loài hoa mọc bên bờ Vong Xuyên, nơi người chết phải đi qua để uống canh Mạnh Bà cho quên đi những kí ức đã có trong kiếp này. Bỉ Ngạn là loài hoa duy nhất bầu bạn với vong linh trên con đường đến chốn Hoàng Tuyền.
Về Bỉ Ngạn hoa, trong nhân gian vẫn lưu giữ một truyền thuyết như sau. Xưa có hai người là Bỉ và Ngạn, ông trời đã quy định hai người bọn họ vĩnh viễn không thể gặp nhau, thế nhưng hai người họ lại cảm mến nhau, trong lòng lúc nào cũng luôn nhớ tới đối phương…
Rốt cuộc có một ngày, bọn họ đã phá vỡ giới luật để tìm đến bên nhau. Sau khi bọn họ gặp gỡ, hóa ra Bỉ là một hồng nhan tựa thủy, Ngạn là một thiếu niên anh tuấn tiêu sái. Họ vừa gặp đã thân, lòng yêu say đắm, liền hẹn ước cùng nhau gắn bó suốt đời, quyết định đời đời kiếp kiếp, mãi mãi ở cùng một chỗ.
Kết quả đã được định trước, bởi vì trái với luật trời, họ bị đọa xuống trần gian rồi biến thành hoa và lá của cùng một cây. Có điều, loài hoa này rất đặc biệt, hoa nở thì lá lụi tàn, lá xanh thì tuyệt nhiên không hoa, đời đời kiếp kiếp, hoa và lá không cùng xuất hiện. Đời này đã định trước là không thể gặp nhau.
Một ngày, Đức Phật đi ngang qua, thấy trên mặt đất có một loài hoa đỏ rực như lửa, vừa nhung nhớ lại vừa u sầu. Phật vừa liếc nhìn đã thấu tỏ được huyền cơ trong đó. Quả thật là:
“Bỉ Ngạn hoa, khai nhất thiên niên, lạc nhất thiên niên, hoa diệp vĩnh bất tương kiến. Tình bất vi nhân quả, duyên chú định sinh tử” – Bỉ Ngạn hoa, một nghìn năm nở, một nghìn năm tàn, hoa và lá vĩnh viễn không thể gặp nhau. Tình không vì nhân quả, duyên đã định tử sinh.
Đức Phật xót thương, bèn quyết định mang hoa về miền Cực Lạc. Nhưng vì Cực Lạc là Phật quốc, là thế giới thanh tịnh và thuần khiết, nên tất cả những gì là ‘tình si’, ‘nhung nhớ’, ‘u sầu’, ‘đau khổ’… đều không được phép tiến nhập vào miền tịnh thổ. Những thứ xúc cảm con người ấy đều phải rời khỏi hoa, kết thành một màu đỏ rực lửa rồi rơi xuống sông Vong Xuyên.
Bởi vậy, khi về đến Cực Lạc, đóa hoa trong tay Phật đã biến thành một màu trắng tinh khiết không còn nhuốm bụi trần. Đức Phật bèn gọi nó là Mạn Đà La hoa, hoa của cõi Phật, cũng chính là một loại hoa Bỉ Ngạn.
Lại nói về màu đỏ rực lửa. Lúc ấy, Bồ Tát Địa Tạng thần thông quảng đại đã biết rằng nghiệp duyên của hoa Mạn Đà La hiện đang nằm dưới sông Vong Xuyên. Ngài bèn đến bên bờ sông, ném xuống một hạt giống, chỉ trong chốc lát một đóa hoa đỏ tươi bay ra khỏi mặt nước. Bồ Tát đón lấy hoa và nói:
“Ngươi đã thoát thân trở về miền Cực Lạc, sao còn đem nỗi hận tình si để lại nơi khổ ải vô biên này chứ? Vậy thì, ngươi hãy ở đây làm sứ giả tiếp dẫn các linh hồn đi về phía luân hồi. Cực Lạc đã có Mạn Đà La hoa rồi (Mandarava), vậy ta sẽ gọi ngươi là Mạn Châu Sa hoa vậy (Manjusaka)”.
Từ đó có hai loài hoa Bỉ Ngạn, một loại trắng ngần tinh khiết, một loại lại rực rỡ hoa lệ; một loại gợi nhớ gợi thương, chia ly đau khổ, một loại lại vô dục vô cầu, vô khổ vô bi; một loại trầm luân trong nỗi sầu nhân thế, một loại lại thản thản đãng đãng nơi Phật quốc thanh cao.
Ứng với hoa Mạn Đà La miền Cực Lạc và hoa Mạn Châu Sa bên bờ sông Vong Xuyên là hai thứ hoa Bỉ Ngạn (đỏ và trắng) sinh trưởng ở cõi thế gian. Hoa giống như lời nhắc nhở với thế nhân:
Ái tình là mộng ảo, khi duyên hết thì tình cũng dứt, trả hết nợ một đời thì đừng nên luyến tiếc mà càng thêm đau khổ. Vì con người mê đắm trong ‘Tình’ nên cần phải ngộ được chân lý này mới có thể thanh thản giữa các kiếp luân hồi.
Nguồn: http://tinhhoa.net/hoa-bi-ngan-loai-hoa-noi-dia-phu-canh-tinh-the-nhan-ve-ao-anh-cua-tinh.html